PV: Ông có thể chia sẻ những thông tin về tình hình phát triển ĐGNK trên thế giới hiện nay?

TS Hoàng Xuân Quốc
TS Hoàng Xuân Quốc: ĐGNK đang phát triển rất nhanh và đang trở thành một xu thế chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ ở phạm vi toàn cầu, do hai yếu tố.
Thứ
nhất là nhu cầu cấp bách về giảm phát thải carbon, phát triển kinh tế
xanh, kinh tế tuần hoàn và bền vững được nhiều nước trên thế giới, trong
đó có Việt Nam, cam kết thực hiện.
Thứ
hai là những tiến bộ về khoa học công nghệ trong lĩnh vực năng lượng
tái tạo nói chung, ĐGNK nói riêng cũng rất nhanh. Điều đó làm giảm giá
thành và tăng hiệu quả đầu tư ĐGNK rất đáng kể. Điều này cũng gần giống
như điện mặt trời giai đoạn đầu, những tấm pin mặt trời rất nặng nề, giá
đắt đỏ, hiệu suất kém, nhưng càng ngày hiệu suất càng tăng và giá thành
giảm đi rất nhiều. ĐGNK cũng vậy, cách đây mấy năm, các turbine gió
ngoài khơi chỉ có công suất tầm 3-6 MW, bây giờ đều trên dưới 10 MW. Các
loại turbine 13 MW trở lên hiện trở nên phổ biến, sắp tới sẽ lên khoảng
15-18 MW với chiều cao cột gió có thể tới 120-150m trên mặt biển. Bên
cạnh đó, công nghệ truyền tải điện cao áp một chiều với điện áp lên tới
800 kV, cho phép truyền tải công suất lớn đi xa cả nghìn ki-lô-mét với
chi phí thấp và ít tổn thất điện năng hơn truyền tải điện xoay chiều
truyền thống. Những điều đó làm cho ĐGNK dần trở nên hiệu quả và cạnh
tranh hơn. Theo tôi, trong tương lai, ĐGNK có thể cạnh tranh được với
điện khí LNG nếu giá LNG vẫn neo ở mức cao.
Thêm
nữa, tuy cùng là năng lượng tái tạo, nhưng ĐGNK có ưu điểm hơn so với
điện mặt trời là tính ổn định vận hành và hệ số công suất cao hơn rất
nhiều. Dĩ nhiên còn tùy khu vực, nhưng nhìn chung, turbine gió có thể
chạy 5.000-6.000 giờ/năm, tương đương với nhà máy nhiệt điện. Trong khi
đó, điện mặt trời thường chỉ vận hành được khoảng 2.000 đến dưới 3.000
giờ/năm.
Theo nhận định của giới
chuyên môn, việc phát triển ĐGNK là xu hướng không thể đảo ngược trên
toàn thế giới trong 10-20 năm tới. Cùng với mục tiêu của đa số các quốc
gia trên thế giới đều cam kết phát thải ròng CO2 bằng 0 (Net-zero) vào
khoảng năm 2050-2060, ĐGNK chắc chắn sẽ có thêm nhiều cơ hội, động lực
để phát triển mạnh hơn nữa.

PTSC và SCU đã ký thỏa thuận hợp tác chung đầu tư, xuất khẩu điện sang Singapore từ nguồn NLTTNK trên thềm lục địa Việt Nam
PV: Các quốc gia đánh giá như thế nào về tiềm năng ĐGNK của Việt Nam, thưa ông?
TS Hoàng Xuân Quốc:
Việt Nam được đánh giá có tiềm năng về ĐGNK khá tốt, ước tính lên tới
600 GW, tức 600 nghìn MW. So với công suất lắp đặt của toàn hệ thống
điện quốc gia nước ta hiện nay khoảng trên 75 nghìn MW, tiềm năng ĐGNK
gấp khoảng 8 lần. Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được đánh giá cao
nhất về ĐGNK.
PV: Hiện nay, theo ông, điều gì là quan trọng nhất để nước ta có thể phát triển ĐGNK?
TS Hoàng Xuân Quốc:
Tôi cho rằng, đầu tiên cần phải có khảo sát, đánh giá cụ thể nguồn tài
nguyên này. Gió cũng phải coi là một dạng tài nguyên quốc gia, phải được
khảo sát và đánh giá trữ lượng, tiềm năng. Hiện nay, chúng ta nói tiềm
năng ĐGNK Việt Nam là 600 GW, nhưng tiềm năng đó được phân bổ như thế
nào ở các vùng biển khác nhau thì chưa có. Theo tôi, Chính phủ thực hiện
hoặc giao cho doanh nghiệp có kinh nghiệm thực hiện khảo sát các khu
vực về gió ngoài khơi và lập bản đồ năng lượng gió giống như là bản đồ
các lô dầu khí vậy. Sau đó, căn cứ vào các lô năng lượng gió để có thể
kêu gọi đầu tư phát triển ĐGNK, như hình thức phát triển các mỏ dầu khí
của nước ta.
Thứ hai là, phải có
chính sách, khung pháp lý đồng bộ và đầy đủ cho ĐGNK, từ quy hoạch, tỷ
lệ của ĐGNK trong tổng thể bức tranh năng lượng quốc gia, cho đến các
chính sách lựa chọn nhà đầu tư, đối tác, đấu thầu, mua bán điện hoặc là
mua bán nhiên liệu xanh sản xuất từ năng lượng tái tạo ngoài khơi
(hydro, amoniac...), vấn đề truyền tải, kết nối với hệ thống điện quốc
gia... đặc biệt là phải có chính sách liên quan đến xuất khẩu ĐGNK để
khai thác tốt nhất nguồn tài nguyên quý báu này.
Thứ
ba là, nên có một doanh nghiệp phù hợp để tiên phong thực hiện những dự
án ĐGNK lớn đầu tiên. Theo tôi, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
(Petrovietnam) và các đơn vị thành viên có nhiều thuận lợi để có thể đẩy
nhanh quá trình triển khai thực hiện một số dự án ĐGNK, tận dụng hiệu
quả các nguồn lực sẵn có.
Việt
Nam được đánh giá có tiềm năng lớn về ĐGNK, ước tính lên tới 600 GW,
tức 600 nghìn MW. So với công suất lắp đặt của toàn hệ thống điện quốc
gia nước ta hiện nay khoảng trên 75 nghìn MW, tiềm năng ĐGNK gấp khoảng 8
lần.
|
PV: Ông có thể phân tích cụ thể hơn những ưu thế của Petrovietnam khi tham gia vào lĩnh vực năng lượng tái tạo ngoài khơi?
TS Hoàng Xuân Quốc:
Thứ nhất, Petrovietnam đã tiến hành hoạt động thăm dò, khai thác, đầu
tư sản xuất kinh doanh ở các vùng biển, thềm lục địa Việt Nam hơn 35
năm, có nhiều kinh nghiệm, có đầy đủ nhân lực và các thiết bị chuyên
dụng để thực hiện các công việc chuyên ngành ngoài biển khơi.
Petrovietnam
đã có cơ sở vật chất và nhân sự chuyên môn hóa để thiết kế, chế tạo các
cấu kiện, thiết bị cho ngành Dầu khí, hoàn toàn có thể sử dụng cho
ĐGNK, ví dụ như chân đế hay trạm biến áp các dự án điện gió ở nước ngoài
mà PTSC đã và đang triển khai. Việc vận hành và bảo dưỡng các trạm ĐGNK
có thể không phức tạp hơn các giàn khai thác dầu khí, nên tôi cho rằng
Petrovietnam hoàn toàn có thể đảm đương được.
Một
điều đáng nói nữa, theo tôi, những khu vực mà các mỏ dầu khí đã khai
thác đến giai đoạn đóng mỏ, thay vì tháo dỡ hoặc bỏ không sử dụng thì có
thể nghiên cứu chuyển đổi thành những khu sản xuất ĐGNK. Giàn khoan cũ
có thể nghiên cứu sử dụng để làm trạm biến áp ngoài khơi (OSS), hệ thống
đường ống sẵn có được cải tạo phù hợp để vận chuyển sản phẩm hydro,
amoniac xanh được sản xuất từ ĐGNK để đưa vào bờ...
Dĩ
nhiên, đó mới chỉ là ý tưởng, còn cần phải nghiên cứu thêm. Nhưng rõ
ràng nếu Petrovietnam tiên phong làm ĐGNK sẽ có rất nhiều thuận lợi. Đặc
biệt, từ trước đến nay, ngành Dầu khí luôn đi đầu và hỗ trợ đắc lực cho
Chính phủ trong việc bảo đảm an ninh biển đảo của Tổ quốc, an ninh năng
lượng quốc gia, sẽ tiếp tục phát huy và củng cố thế mạnh vững chắc
trong lĩnh vực mới mẻ này.

Điện gió ngoài khơi đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới
PV: Quan điểm của ông về xuất khẩu ĐGNK như thế nào?
TS Hoàng Xuân Quốc:
Đây là vấn đề khá mới. Việc nước ta xuất khẩu ĐGNK sang một số nước
xung quanh là khả thi. Trước mắt, Singapore và sau đó có thể là
Malaysia, hai quốc gia mà Việt Nam hoàn toàn có thể xuất khẩu ĐGNK sang
được.
Theo tôi, chúng ta nên sản xuất ĐGNK để xuất khẩu trước bởi một số lý do.
Thứ
nhất, ĐGNK không bị phụ thuộc về quy hoạch phát triển điện lực quốc gia
và hợp đồng mua bán điện trong nước, trong khi các chính sách phát
triển ĐGNK để tiêu thụ trong nước cần phải có thời gian để nghiên cứu,
ban hành phù hợp.
Thứ hai, ĐGNK
hiện nay giá thành còn cao hơn so với các nguồn điện truyền thống khác,
những nước phát triển có giá điện cao như Singapore hoàn toàn có thể
chấp nhận được. Mục tiêu giảm phát thải ròng về 0 của Singapore cũng sớm
hơn nước ta, vào khoảng năm 2030-2035. Do đó, họ đã và sẽ phải thúc đẩy
sử dụng năng lượng sạch.
Thứ ba,
sản xuất ĐGNK để xuất khẩu là các dự án nằm ở các vị trí thật sự xa bờ,
vì vậy không ảnh hưởng gì đến các dự án ĐGNK nằm trong Quy hoạch điện
VIII.
Cuối cùng, từ việc sản xuất
ĐGNK cho xuất khẩu, chúng ta cũng có thời gian để chuẩn bị và có kinh
nghiệm để triển khai các dự án ĐGNK quy mô lớn, cung ứng điện cho thị
trường trong nước.
Ngày
10-2-2023, tại Singapore, nhân chuyến thăm chính thức của Thủ tướng
Chính phủ Phạm Minh Chính, PTSC và Sembcorp Utilities Pte. Ltd. (SCU) đã
ký thỏa thuận hợp tác chung đầu tư, xuất khẩu điện sang Singapore từ
nguồn ĐGNK trên thềm lục địa Việt Nam. Nếu PTSC xuất khẩu được điện sang
Singapore vào năm 2030 sẽ tạo ra tiền đề rất tốt cho phát triển các dự
án ĐGNK ở nước ta trong thời gian tới.

Tổng
Giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng và đoàn công tác thăm công trường
lắp ráp Dự án Điện gió ngoài khơi đế nổi Hywind Tampen của Equinor tại
Gulen, Na Uy năm 2022
PV: Hiện
nay có rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, tìm hiểu khả năng hợp
tác, đầu tư trong lĩnh vực ĐGNK ở nước ta. Theo ông, nhà đầu tư nước
ngoài có vai trò như thế nào trong việc thúc đẩy phát triển ĐGNK của
nước ta?
TS Hoàng Xuân Quốc:
Đặc thù của ĐGNK là phải đầu tư lớn mới hiệu quả. Các dự án ĐGNK thông
thường phải từ 1 GW (1.000 MW) trở lên. Do đó, tôi nghĩ vai trò của nhà
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này rất quan trọng. Vì đầu tư ĐGNK cần
vốn rất lớn, các dự án hầu như đều cần hàng tỉ USD. Như vậy việc thu xếp
được nguồn vốn lớn, đặc biệt là vốn nước ngoài với chi phí vốn hợp lý
là rất cần thiết.
Bên cạnh đó,
các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm trong vận hành, khai thác, bảo
trì, sửa chữa những cụm ĐGNK, lựa chọn những công nghệ phù hợp nhất và
quản trị rủi ro trong quá trình thực hiện các dự án.
Do
đó, tôi nghĩ Việt Nam cần có chính sách phù hợp để thu hút mạnh mẽ đầu
tư nước ngoài trong lĩnh vực ĐGNK. Nhiều công ty lớn và quỹ đầu tư,
trong đó có VinaCapital, hiện đang rất quan tâm tới phát triển năng
lượng tái tạo nói chung, điện gió nói riêng.
Petrovietnam
có nhiều kinh nghiệm, có đầy đủ nhân lực, cơ sở vật chất để thực hiện
các công việc chuyên ngành ngoài biển khơi, hoàn toàn có thể thực hiện
các dự án ĐGNK. Việc vận hành, bảo dưỡng các trạm ĐGNK không phức tạp
hơn các giàn khai thác dầu khí, nên Petrovietnam có thể đảm đương được. |
PV: Theo ông, các chính sách về giá và bao tiêu sản lượng điện có tác động như thế nào tới ĐGNK?
TS Hoàng Xuân Quốc:
Rất quan trọng. Đối với năng lượng tái tạo ngoài khơi, cần có chính
sách rõ ràng, phải tìm được đầu ra cho sản phẩm (điện gió, nhiên liệu
xanh) ở trong nước hoặc xuất khẩu. Trong đó, để tiêu thụ hiệu quả nguồn
năng lượng sạch này ở trong nước, theo tôi, chúng ta cần có thị trường
điện cạnh tranh phù hợp; cần phân biệt rạch ròi giữa điện sạch từ năng
lượng tái tạo và nhiệt điện truyền thống; cần mở rộng việc mua bán điện
trực tiếp giữa nhà sản xuất điện sạch và hộ tiêu thụ điện; nên cho phép
có những doanh nghiệp chuyên kinh doanh điện sạch, điện tái tạo để bán
cho những hộ tiêu thụ có nhu cầu đặc thù. Sẽ có những hộ tiêu thụ sẵn
sàng trả giá cao để mua điện sạch nhằm giúp sản phẩm của họ đáp ứng các
tiêu chuẩn sản xuất xanh. Còn hiện nay, chúng ta cơ bản trộn lẫn các
loại điện và bán cùng một khung giá, sẽ không thấy được hiệu quả của
điện sạch.
Ở một số quốc gia,
điện sạch được bán với giá cao là điều bình thường. Nhưng cơ chế mua bán
điện phải cho hộ tiêu dùng có quyền lựa chọn. Tương tự như chúng ta
muốn sử dụng thực phẩm hữu cơ thì phải trả giá cao hơn thực phẩm thông
thường. Đối với các nhà sản xuất cũng vậy, sản phẩm của họ sẽ giá trị
hơn, dễ xuất khẩu với giá tốt hơn nếu sử dụng điện sạch để sản xuất, như
vậy, họ sẵn sàng mua điện sạch với giá cao hơn.
Chúng
ta không thể và không nên đứng ngoài xu thế đó bởi vì Việt Nam có độ mở
kinh tế rất lớn, tham gia vào nhiều hiệp định kinh tế đa phương, hàng
hóa xuất khẩu rất nhiều và phải phù hợp tiêu chuẩn hàng hóa của thế
giới, trong đó có các tiêu chuẩn ngày càng cụ thể và khắt khe về môi
trường, kinh tế xanh. Những ưu thế về một nền sản xuất sạch, thân thiện
với môi trường sẽ tạo ra nhiều giá trị bền vững cho Việt Nam.

Ưu thế về một nền sản xuất công nghiệp sạch, thân thiện với môi trường sẽ tạo ra nhiều giá trị bền vững
PV: Ông kỳ vọng như thế nào về sự phát triển ĐGNK của nước ta những năm tới?
TS Hoàng Xuân Quốc:
Tôi nghĩ đến một lúc nào đó ĐGNK sẽ phát triển rất mạnh mẽ. Chính phủ
đã đưa vào Quy hoạch điện VIII đến năm 2030 sẽ có khoảng 6.000 MW điện
gió. Con số này, theo tôi, cũng còn tương đối thận trọng. Tuy nhiên, để
đạt được mục tiêu đó, cần phải có chính sách sớm và đồng bộ. Phát triển
một dự án ĐGNK quy mô lớn thông thường mất khoảng 7 năm. Nếu làm từ bây
giờ thì hy vọng đến năm 2030 chúng ta sẽ có những MW ĐGNK đầu tiên.
Chắc
chắn vẫn còn nhiều thách thức nhưng đây là xu thế không thể đảo ngược.
Quan điểm của tôi là dù muốn hay không, sớm hay muộn, chúng ta cũng phải
phát triển năng lượng tái tạo ngoài khơi nếu không muốn đứng ngoài cuộc
chơi toàn cầu.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
PTSC
và Sembcorp Utilities Pte. Ltd. (SCU) đã ký thỏa thuận hợp tác chung
đầu tư, xuất khẩu điện sang Singapore từ nguồn ĐGNK trên thềm lục địa
Việt Nam. Nếu PTSC xuất khẩu được điện sang Singapore vào năm 2030 sẽ
tạo ra tiền đề rất tốt cho phát triển các dự án ĐGNK ở nước ta trong
thời gian tới.
Mai Phương
Nguồn:https://petrotimes.vn/phat-trien-dien-gio-ngoai-khoi-can-chinh-sach-som-va-dong-bo-685567.html