Theo cam kết tại COP 26, Việt Nam cần thúc đẩy các cơ chế, chính sách hỗ
trợ trong những năm tới đây nhằm đáp ứng mục tiêu năng lượng xanh từng
bước thay thế năng lượng hóa thạch theo hướng bền vững nhất.

Việt
Nam là một trong những quốc gia đi đầu về phát triển năng lượng tái tạo
với hơn 20 GW năng lượng tái tạo và huy động 17 tỷ USD đầu tư tư nhân
trong vòng 2 năm qua - Ảnh minh họa, https://kinhtexaydung.petrotimes.vn
Thông
tin tại Hội thảo tác động của COP26 đến chuyển dịch năng lượng theo
hướng tăng trưởng xanh, ngày 17/8, ông Rahul Kitchilu, Phụ trách Chương
trình Cơ sở hạ tầng, Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng: Những cam kết của
Việt Nam tại COP-26 được tổ chức tại Glasgow về phát thải ròng bằng 0
vào năm 2050 đóng vai trò quan trọng toàn cầu.
"Việt
Nam là một trong những quốc gia đi đầu về phát triển năng lượng tái tạo
với hơn 20 GW năng lượng tái tạo và huy động 17 tỷ USD đầu tư tư nhân
trong vòng 2 năm qua. Đây là nỗ lực đáng ghi nhận và là bước đi nghiêm
túc hướng tới đẩy mạnh chuyển dịch năng lượng sạch và loại bỏ carbon
khỏi nền kinh tế", ông Rahui Kitchilu nhìn nhận.
Tuy
nhiên, ông Rahul cũng cho rằng: Phía trước vẫn còn rất nhiều thách
thức. Bởi, vấn đề đặt ra là phải làm sao để cân bằng giữa chuyển dịch
năng lượng và đảm bảo an sinh xã hội, cũng như giá thành hợp lý của năng
lượng để đáp ứng nhu cầu năng lượng đang gia tăng nhanh chóng, song
hành với việc chuyển đổi thành một nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045
của Chính phủ.
Đại
diện WB cũng đánh giá, thời gian qua, Việt Nam đã có cơ chế, chính sách
hỗ trợ cho năng lượng tái tạo như việc áp dụng giá FIT với điện gió và
điện mặt trời đã góp phần tạo ra sự "bùng nổ" về phát triển nguồn năng
lượng này.
"Thế
nhưng, do thời gian áp dụng các cơ chế này khá ngắn, cộng với ảnh hưởng
của đại dịch COVID-19 suốt 2 năm vừa qua khiến cho nhiều dự án lâm cảnh
“lỡ hẹn giá FIT”. Cơ chế chính sách cho điện mặt trời, điện gió sau đó
đang chậm ban hành, khiến nhà đầu tư không thể hoạch định ra các kế
hoạch đầu tư trong tương lai", ông Rahui chỉ rõ.
Tiềm năng lớn về điện gió
Đưa
ra giải pháp, đại diện WB đánh giá: Việt Nam may mắn có nhiều tiềm năng
để phát triển năng lượng tái tạo. Bên cạnh năng lượng mặt trời, gió,
Việt Nam còn có tiềm năng to lớn về gió thổi từ đất liền ra biển. Phân
tích cho thấy khoảng 370 GW năng lượng tái tạo có thể được tạo ra thêm
vào năm 2040 để giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.
Những
kinh nghiệm gần đây của Việt Nam cho thấy, có thể hiện thực hóa điều
này chủ yếu qua đầu tư tư nhân. Do đó, ông Rahul đề xuất: Để tiếp tục
duy trì sự tăng trưởng đối với năng lượng tái tạo, cần có các cải tiến
trong việc hoạch địch mở rộng hệ thống năng lượng, khung pháp lý đối với
việc thu mua để đảm bảo nguồn cung năng lượng tái tạo có chi phí thấp.
 |
Năng
lượng gió phát được cả ngày và đêm nên lượng điện sinh ra sẽ nhiều hơn
so với năng lượng mặt trời, https://kinhtexaydung.petrotimes.vn |
Đồng
tình với quan điểm trên, TS. Ngô Đức Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện
Năng lượng (Bộ Công Thương) cho rằng: Điện gió không chiếm nhiều đất,
đây là điều trái ngược hẳn với điện mặt trời. Các turbine gió và thiết
bị thực tế không sử dụng nhiều không gian đất. Điều này có nghĩa là đất
được sử dụng để đặt các trụ turbine, cũng có thể được sử dụng cho các
mục đích khác, chẳng hạn như nông nghiệp.
Ngoài
ra, theo TS. Ngô Đức Lâm, không giống như than đá, khí đốt tự nhiên
hoặc dầu, bản thân các turbine gió không yêu cầu đốt bất kỳ nhiên liệu
hóa thạch nào để hoạt động. Mặt khác, nguồn năng lượng gió không bao giờ
cạn kiệt. Giờ đây điện gió còn được làm trên mặt biển, lấy gió ngoài
khơi để phát điện. Cho nên các nước đang tập trung cho điện gió ngoài
khơi bởi gió ngoài khơi có tiềm năng lớn, ổn định hơn so với đất liền.
“Điện
gió bây giờ đắt hơn điện mặt trời và nhiệt điện than. Nhưng trong tương
lai, với sự phát triển của công nghệ, giá điện gió sẽ rẻ hơn. Khi đó,
điện gió sẽ chiếm tỷ lệ cao hơn so với điện mặt trời.
Năng
lượng gió lại phát được cả ngày và đêm cho nên lượng điện sinh ra sẽ
nhiều hơn so với năng lượng mặt trời. Cùng có công suất lắp đặt là
10.000 MW, nhưng một loại chỉ phát được tối đa 12 tiếng, trong khi một
bên phát điện được 24 tiếng. Như vậy lượng điện thu được từ gió sẽ tốt
hơn và nhiều hơn, giá thành điện gió cũng sẽ rẻ nhanh hơn", TS. Ngô Đức
Lâm nhìn nhận.
Nhà đầu tư cần làm gì trước sự thay đổi của cơ chế?
Từ
góc độ nhà đầu tư, ông Stuart Livesey, Tổng Giám đốc dự án điện gió La
Gàn cho rằng: Một lộ trình rõ ràng cho tương lai của ngành công nghiệp
điện gió ngoài khơi ở Việt Nam là rất quan trọng, xét về thời điểm và
cách thức các dự án được lựa chọn và triển khai. Điều này sẽ giảm bớt
rủi ro cho các nhà phát triển và nhà cung cấp lớn có thể cam kết đầu tư
lâu dài với quy mô lớn hơn ở thị trường châu Á-Thái Bình Dương.
Phân
tích cụ thể hơn, ông Stuart Livesey cho rằng, điện gió ngoài khơi đòi
hỏi các khoản đầu tư lớn, do đó cần có một Hợp đồng mua bán điện (PPA)
có khả năng giải quyết các vấn đề liên quan khi có rủi ro về chính sách:
Cắt giảm công suất phát lên lưới điện; Khoản thanh toán khi chấm dứt
PPA; Cơ quan giải quyết tranh chấp; Quyền của bên cho vay kế thừa dự án
và thay đổi pháp luật.
Đặt
câu hỏi các nhà đầu tư cần làm gì trước những sự thay đổi của cơ chế,
chính sách đầu tư, mua bán điện tái tạo, một nhà đầu tư chia sẻ: Với các
nhà đầu tư thì bị động có nghĩa là chết. Do đó, doanh nghiệp phải luôn
chủ động kiện toàn lại hệ thống, tối ưu hoạt động chi phí để đảm bảo chờ
được cơ chế mới. Mặt khác, nhà đầu tư cũng sẽ tiếp tục tìm kiếm các cơ
hội trong các mảng kinh doanh cùng hệ sinh thái năng lượng vì việc này
vẫn còn rất nhiều dư địa để phát triển.
Ngoài
ra, nhà đầu tư cần bảo vệ và tìm kiếm nguồn tài chính mới để tiếp tục
tái nâng cấp, đầu tư vào các xu hướng năng lượng mới; chủ động tìm kiếm
các nguồn lực trong và ngoài nước thực sự am hiểu và có năng lực về năng
lượng, mở ra các cơ hội hợp tác với các đối tác có năng lực triển khai
các dự án năng lượng tái tạo.
Giảm thiểu tác động lên giá điện
Thứ
trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Thị Bích Ngọc đánh giá, để hiện thực hóa
được các mục tiêu về chuyển đổi năng lượng và hướng tới mục tiêu phát
thải ròng bằng 0 vào năm 2050 như đã cam kết, vấn đề lớn nhất ở đây
chính là nguồn lực thực hiện.
Về
tổng thể, theo ước tính của Ngân hàng Thế giới tại Báo cáo quốc gia về
khí hậu và phát triển cho Việt Nam (CCDR) vừa mới công bố cho thấy, tổng
nhu cầu tài chính tăng thêm của Việt Nam để xây dựng khả năng chống
chịu và khử carbon, hướng tới phát thải ròng bằng 0 có thể lên tới 368
tỷ USD trong giai đoạn 2022-2040, xấp xỉ 6,8% GDP mỗi năm.
Chỉ
tính riêng lộ trình xây dựng khả năng chống chịu sẽ chiếm khoảng 2/3 số
tiền này vì cần huy động lượng vốn đáng kể để bảo vệ tài sản và cơ sở
hạ tầng cũng như những người dân dễ bị tổn thương.
Chi
phí của lộ trình khử carbon chủ yếu phát sinh từ ngành năng lượng gồm
chi phí đầu tư vào năng lượng tái tạo và quản lý quá trình chuyển dịch
ra khỏi năng lượng than, có thể tiêu tốn khoảng 64 tỷ USD từ năm 2022
đến năm 2040.
Do
vậy, lãnh đạo Bộ KH&ĐT cho rằng, cần tính toán kỹ lưỡng lộ trình
chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững để đảm bảo an ninh năng
lượng quốc gia. Trong quá trình chuyển dịch năng lượng cần giảm thiểu
tối đa tác động tới các nhóm và đối tượng dễ bị tổn thương, trong đó đặc
biệt lưu ý đến tác động của tăng giá điện đối với các hộ gia đình nghèo
và việc chuyển đổi, mất việc làm của người lao động trong các ngành,
lĩnh vực chẳng hạn từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo.
Cũng
nêu vấn đề về chi phí, nói riêng về ngành điện, ông Rachui Kitchilu cho
rằng, quá trình chuyển dịch năng lượng mà Việt Nam đang hướng đến đòi
hỏi vốn đầu tư và cần giảm thiểu tác động lên giá điện mà người dân phải
chi trả.
Phân
tích của các chuyên gia WB cho thấy sẽ cần khoảng 166 tỷ USD (giá trị
hiện tại) để đầu tư cho ngành điện tới năm 2040 để chuyển dịch theo các
mục tiêu của COP26.
"Con
số này đang cao hơn khoảng 50% so với con số 109 tỷ USD được ước tính
theo kịch bản trong dự thảo Quy hoạch điện VIII sơ bộ. Khi đó, giá điện
trung bình cũng có thể tăng khoảng 25% vào năm 2040", ông Rachui nêu vấn
đề.
Để đáp
ứng nhu cầu tài chính, đại diện WB đưa ra ý kiến: Cần có sự kết hợp của
nhiều nguồn lực, bao gồm tái phân bổ nguồn tiết kiệm nội địa cho các dự
án liên quan đến khí hậu, tăng dự trữ quốc gia, và nguồn hỗ trợ tài
chính từ bên ngoài. Nguồn vốn ODA có thể giúp giảm thiểu nguy cơ và huy
động lĩnh vực kinh tế tư nhân, cải thiện tính tiếp cận của các dịch vụ
về điện. Việt Nam nên làm việc chặt chẽ với các đối tác phát triển đa
phương và song phương để đảm bảo nguồn tài chính cho các nỗ lực chuyển
dịch năng lượng xanh.
https://kinhtexaydung.petrotimes.vn
Mai Ngọc
Nguồn: https://baochinhphu.vn/dien-gio-chia-khoa-cho-nang-luong-tai-tao-phat-trien-ben-vung-102220820105012326.htm