Phát triển điện khí xu hướng tất yếu đảm bảo an ninh năng lượng

Tại diễn đàn "Phát triển thị trường khí Việt Nam" với chủ đề: "Phát triển điện khí LNG - Xu hướng tất yếu trong chính sách đảm bảo an ninh năng lượng"  tổ chức tại Hà Nội ngày 22/11, ông Bùi Quốc Hùng, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) khẳng định, phát triển điện khí là yêu cầu bắt buộc theo quy hoạch, nên cần tính toán để có chuyển dịch cơ cấu nguồn điện.
 

Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu giảm dần điện than, phát triển điện khí, tăng cường năng lượng tái tạo. Để vận hành điện năng lượng tái tạo phải có điện khí để chạy nền. Trong khi đó, Việt Nam phải nhập khẩu 100% LNG (khí thiên nhiên hóa lỏng) để phục vụ các mục tiêu lớn trong phát triển điện khí nhưng mới chỉ có đúng 1 tổng kho là Kho LNG Thị Vải ở Bà Rịa-Vũng Tàu. Ngoài ra, vẫn còn đó nhiều khó khăn về chính sách phát triển thị trường LNG.

1.jpg -0
Tổng Giám đốc Lê Mạnh Hùng kiểm tra tiến độ dự án Nhà máy Nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4.
Gian nan phát triển thị trường điện khí

Theo Quy hoạch điện VIII, đến năm 2030, nguồn nhiệt điện khí trong nước và khí hóa lỏng sẽ đạt 37.330 MW, tương ứng 24,8% tổng công suất nguồn điện, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn điện (trong đó nhiệt điện khí trong nước là 14.930 MW chiếm 9,9% và nhiệt điện khí hóa lỏng là 22.400 MW chiếm 14,9%). Trong khi đó, nhiệt điện than, thủy điện, điện gió trên bờ và ngoài khơi lần lượt chiếm tỷ trọng là 20%, 19,5% và 18,5%.

Với cơ cấu nguồn điện như trên, cùng với định hướng đến năm 2050 không còn sử dụng than cho phát điện thì vai trò chạy nền của các nhà máy điện khí trong hệ thống điện là điều tất yếu vì là nguồn điện duy nhất không bị ảnh hưởng bởi thời tiết so với thủy điện, điện gió và điện mặt trời. Ngoài ra, lợi thế của điện khí là tính sẵn sàng cao, công suất lớn với dải điều chỉnh rộng, thời gian đáp ứng nhanh, giảm thiểu phát thải khí nhà kính CO2, đặc biệt là giảm thiểu khí gây ô nhiễm SOx, NOx so với các nhà máy điện chay than và dầu.

Việc đưa LNG vào sử dụng còn phù hợp với cam kết của Chính phủ tại Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) với mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 và xu hướng sử dụng nhiên liệu giảm phát thải trên toàn cầu.

Để đáp ứng công suất quy hoạch nhiệt điện khí và LNG theo Quy hoạch điện VIII với nhu cầu đến năm 2030 cần khoảng 15 – 18 triệu tấn LNG/năm, các doanh nghiệp đã và đang tích cực triển khai các dự án kho cảng nhập khẩu LNG. Trong đó, tiên phong là Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV GAS) đã bắt đầu đưa kho cảng LNG Thị Vải ở khu vực Đông Nam Bộ vào vận hành từ tháng 7/2023 với công suất giai đoạn 1 là 1 triệu tấn/năm và đang triển khai giai đoạn 2 nâng công suất lên 3 triệu tấn/năm. Đây là dự án đầu tiên, cũng là một dự án lớn trong lĩnh vực LNG ở nước ta.

Ông Bùi Quốc Hùng cho biết, theo Quy hoạch Điện VIII, dự kiến đến năm 2030, riêng điện khí LNG nhập khẩu sẽ cần có 24.000MW với hàng loạt dự án đã được đưa vào quy hoạch. Với dự án điện khí Nhơn Trạch 3 và 4, chủ đầu tư đang phấn đấu đưa vào vận hành từ năm 2025 để phù hợp Quy hoạch điện VIII, đến nay đã đạt tiến độ hơn 60%, nhưng vướng mắc là chưa thể đàm phán hợp đồng mua bán điện, giá điện…

Phát triển điện khí xu hướng tất yếu đảm bảo an ninh năng lượng -0
Người lao động dầu khí trên giàn Sư Tử Trắng.
Theo đại diện Bộ Công Thương, khó khăn với điện khí LNG là cần vốn đầu tư rất lớn, nên cần đảm bảo hợp đồng bao tiêu sản lượng hàng năm, được ký hợp đồng dài hạn. Trong tổng sơ đồ tính toán thì tổng vốn đầu tư là 57 tỷ USD. Với mức đầu tư này, có tiền trong tay cũng chưa thể thực hiện được, chưa biết thu xếp thế nào, trong khi sắp hết năm 2023. Vấn đề nữa là do mức đầu tư lớn nên các dự án điện khí LNG cần có bảo lãnh của Chính phủ. Tại Việt Nam, theo tính toán, nhu cầu nhập khẩu LNG sẽ tăng lên, đạt khoảng 14 -18 tỷ m3 vào năm 2030 và khoảng 13 - 16 tỷ m3 vào năm 2045.

Về khó khăn thách thức, đại diện lãnh đạo Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho biết, việc nhập khẩu LNG phải theo các thông lệ mua bán LNG quốc tế. Việt Nam hiện cũng chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến thiết kế, xây dựng và vận hành các cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý hiện hành cho các dự án LNG cho điện ở Việt Nam vẫn chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Cơ chế giá điện sử dụng nhiên liệu LNG chưa có quy định đầy đủ. Giá phát điện LNG cao hơn so với các nguồn điện khác nên gặp khó khăn trong tham gia thị trường điện và đảm bảo hiệu quả đầu tư.

Về tiến độ triển khai thực hiện các dự án LNG, thách lớn nhất là đàm phán Hợp đồng mua bán điện (PPA). Việc đàm phán PPA phải thực hiện theo đúng quy định của Bộ Công Thương. Theo đó, chủ đầu tư sẽ phải đàm phán mua bán điện với EVN dựa trên chi phí đầu tư nhà máy, giá khí cho phát điện, lợi nhuận cho phép….

Khó khăn nữa là Việt Nam không chủ động được nguồn cấp LNG do phải nhập khẩu 100% loại nhiên liệu này. Trong bối cảnh địa chính trị thế giới có nhiều thay đổi, giá LNG biến động thất thường và vì thường chiếm tỉ lệ từ 70-80% giá thành điện năng sản xuất nên việc xây dựng cơ chế giá phù hợp để thích nghi với những thay đổi giá nhiên liệu mà không tác động quá lớn tới giá bán lẻ điện là thách thức rất lớn với Việt Nam. Thực tế, giá khí hóa lỏng LNG đã tăng rất mạnh thời gian qua, giá nhập khẩu cao là trở ngại trong tương lai khi ký các PPA giữa chủ đầu tư và EVN, do EVN phải mua điện giá cao và bán điện giá rẻ.

Các dự án điện khí LNG có công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư lớn nên đòi hỏi nhà đầu tư cần có kinh nghiệm và năng lực tài chính. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ kinh nghiệm về lĩnh vực này nên có thể sẽ ảnh hưởng tới tiến độ và chất lượng lựa chọn nhà đầu tư cho các dự án. Cơ chế giá điện sử dụng nhiên liệu LNG chưa có quy định đầy đủ, ông Hùng lưu ý.

Cũng theo ông Hùng, vấn đề kho chứa vẫn là thách thức lớn. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có duy nhất 1 kho đang vận hành là Kho Thị Vải thuộc Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV Gas). Những kho chứa LNG khác đang trong giai đoạn lập kế hoạch trên toàn quốc.

Ông Lê Ngọc Anh, Giám đốc Dữ liệu, Viện Dầu khí Việt Nam, cho biết Việt Nam sẽ cần 12 triệu tấn khí LNG/năm kể từ năm 2030. Để phát triển khí LNG, Việt Nam cần quan tâm đến cơ chế đặc thù cho lĩnh vực này thì mới mong có thể phát triển như mong muốn.

Cần sớm hoàn thiện chính sách, cơ chế hút doanh nghiệp đầu tư dự án điện khí LNG

Vấn đề vướng mắc, gây lo lắng, bất an cho các doanh nghiệp là các cơ chế chính sách cho LNG vẫn chưa được thống nhất, hoàn thiện, gặp nhiều khó khăn, phức tạp, đặc biệt là các cơ chế để đưa được nguồn LNG ra thị trường, cung cấp cho các nhà máy điện; đàm phán giá, cước phí, hợp đồng mua bán điện… Hiện, Bộ Công Thương vẫn chưa ban hành khung giá phát điện cho các Nhà máy điện khí LNG thì việc cam kết tổng sản lượng mua điện hàng năm (Qc) và bao tiêu sản lượng khí hằng năm cũng khiến nhà đầu tư lo hiệu quả của dự án. Bởi việc cam kết sản lượng điện phát và tiêu thụ khí hằng năm là rất quan trọng, là cơ sở để các ngân hàng xem xét tài trợ tín dụng cho dự án cũng như mua được nguồn LNG giá tốt thông qua hợp đồng mua LNG dài hạn để giá điện rẻ hơn.

Bên cạnh đó, để hỗ trợ việc nhập khẩu, kinh doanh LNG hiệu quả, các chuyên gia cho rằng, cần chấp thuận chủ trương bổ sung LNG là nguồn khí thay thế khi nguồn khí nội địa đang suy giảm; có cơ chế bao tiêu tối thiểu để xác định khối lượng nhập khẩu dài hạn; … và tương tự như ở các quốc gia phát triển, cần có cơ chế chuyển ngang bao tiêu khối lượng khí và giá khí LNG tái hóa cùng với các quy định cụ thể về cấp có thẩm quyền phê duyệt nguyên tắc xác định giá LNG nhập khẩu, cước phí vận chuyển khí, tồn trữ, phân phối LNG,... để có cơ sở ký kết hợp đồng mua bán khí LNG tái hóa với các nhà máy điện. Đặc biệt, cần xây dựng một khung pháp lý và chính sách ổn định liên quan đến việc nhập khẩu/tiêu thụ LNG. Điều đó cho thấy, các vấn đề vướng mắc liên quan đến cơ chế mua bán khí thiên nhiên hóa lỏng LNG, cơ chế cấp LNG cho khách hàng điện hết sức khó khăn, tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh sản phẩm mới này, cũng như tạo ra các rủi ro cho các dự án điện, khí LNG.

Theo ông Huỳnh Quang Hải, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam (PVGas) cho biết, từ thực tế triển khai các dự án LNG trong thời gian qua, cho thấy, vẫn còn một số tồn tại, thách thức trong việc triển khai Quy hoạch điện VIII. Trong đó, khó khăn lớn nhất là cơ chế chính sách sử dụng LNG cho phát điện. Hiện chúng ta chưa có cơ chế chuyển ngang giá khí LNG tái hóa từ hợp đồng mua bán khí sang hợp đồng mua bán điện, phê duyệt cước phí qua kho và đường ống đưa LNG đến nhà máy điện, nguyên tắc phân bổ LNG nhập khẩu cùng với các nguồn khí nội địa cho các nhà máy điện. Đồng thời, cũng chưa có đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về LNG để đảm bảo việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật LNG đảm bảo an toàn phù hợp với các thông lệ quốc tế. Vì vậy, cần phải rà soát, cập nhật, bổ sung và xây dựng đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về LNG, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện phát triển các dự án điện khí (LNG) và thị trường LNG trong tương lai.

Về đề xuất, kiến nghị giải pháp để triển khai Quy hoạch điện VIII, ông Huỳnh Quang Hải kiến nghị các bộ, ngành và địa phương cần rà soát đảm bảo tính đồng bộ, gắn kết giữa các quy hoạch và kế hoạch thực hiện: Quy hoạch điện VIII; quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia; quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu khí đốt quốc gia; quy hoạch tổng thể hệ thống cảng biển và quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước; các quy hoạch địa phương, đặc biệt là quy hoạch kế hoạch sử dụng đất.

Về cơ chế chính sách, Chính phủ cần xây dựng các cơ chế chính sách liên quan đến cấp khí LNG tái hóa cho các nhà máy điện như: Cơ chế chuyển ngang giá khí LNG tái hóa và bao tiêu khối lượng khí từ hợp đồng mua bán khí sang hợp đồng mua bán điện; phê duyệt cước phí qua kho, cước phí đường ống. Bên cạnh đó, để tối ưu đầu tư hạ tầng kho chứa, cảng biển giúp giảm cước phí, giá khí LNG tái hóa và giảm giá thành phát điện, các cơ quan quản lý cần xem xét triển khai xây dựng các kho LNG theo mô hình “Kho cảng LNG trung tâm cung cấp cho các trung tâm nhiệt điện vệ tinh”. Đồng thời, cần lựa chọn chủ đầu tư có đủ năng lực về tài chính và kinh nghiệm để triển khai thực hiện hiệu quả các dự án trong quy hoạch.

PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế của Bộ Tài chính cho rằng, cần sớm hoàn thiện chính sách, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào dự án điện khí LNG trong nước. Sớm hoàn thiện và ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy phạm của Việt Nam trong việc xây dựng kho cảng và nhập khẩu khí LNG, xem xét giảm thuế nhập khẩu LNG và các thiết bị, máy móc xây dựng nhà máy điện; giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp đầu tư phát triển năng lượng xanh để thúc đẩy đầu tư.

Trong bối cảnh hiện nay, nếu không có bảo lãnh Chính phủ, vừa không có bao tiêu điện, doanh nghiệp sản xuất điện khí khó có thể triển khai các dự án đúng tiến độ và hiệu quả. Nếu không giải được bài toán trên, mọi dự án LNG không thể triển khai. Cùng với đó, cần xây dựng các cơ chế cụ thể để khuyến khích khai thác các nguồn khí trong nước, đặc biệt là nguồn khí đồng hành và mỏ nhỏ, mỏ cận biên trên cơ sở tính toán hiệu quả tổng thể từ thượng nguồn đến hộ tiêu thụ cũng như cân đối hài hòa giữa sản lượng nhập khẩu và sản lượng khai thác khí trong nước.

Để tránh nhiều dự án điện khí bị chậm nhiều năm hoặc khó khăn không thể thực hiện được do năng lực chủ đầu tư, cần có cơ chế lựa chọn chủ đầu tư có đủ năng lực và kinh nghiệm. Vấn đề này đã có quy định trong pháp luật về đấu thầu. Tuy nhiên, hiện chưa có cơ chế đấu thầu chung để chọn chủ đầu tư. Thẩm quyền lựa chọn không thống nhất, khi thì là Chính phủ giao cho bộ, khi thì giao cho tỉnh, gây lúng túng cho các bên liên quan.

"Theo tôi, đã đến lúc cần hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế quản lý cho các dự án đầu tư điện khí LNG theo hình thức đầu tư thông thường (IPP) để tạo điều kiện thu xếp tài chính cho các dự án điện khí LNG quy mô hàng tỷ USD. Cần rà soát và chỉnh sửa các quy định về thủ tục, trình tự đầu tư ở các Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Môi trường, Luật Quy hoạch tạo điều kiện cho việc hoàn thiện và phát triển điện khí LNG", PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Chuyên gia kinh tế Học viện Tài chính cho hay.

Hiện nay, cả nước có 13 dự án điện LNG đã được Thủ tướng phê duyệt trong danh mục các dự án quan trọng, ưu tiên đầu tư của ngành điện tại Quyết định 500/QĐ-TTg. Đây sẽ là một trong các nguồn giúp bảo đảm cung cấp đủ, ổn định và an toàn hệ thống điện quốc gia.

Những vấn đề trên cho thấy, các cơ chế, chính sách đối với lĩnh vực LNG đang là điểm nghẽn lớn cho phát triển, cần được tập trung xử lý, hoàn thiện, để đảm bảo cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp trong lĩnh vực này, hướng đến hiện thực hóa các mục tiêu về LNG trong chiến lược năng lượng quốc gia, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và đáp ứng yêu cầu về chuyển dịch năng lượng theo xu hướng xanh, sạch, bên vững phù hợp với xu thế chung trên toàn cầu;

Phát biểu tại sự kiện Khánh thành kho LNG 1 triệu tấn Thị Vải, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã khẳng định, việc đầu tư xây dựng, đưa vào vận hành kho khí hóa lỏng (LNG) Thị Vải công suất 1 triệu tấn/năm là hạng mục quan trọng, góp phần thực hiện thành công chủ trương của Đảng, Chính phủ về định hướng và quy hoạch phát triển tổng thể năng lượng quốc gia, chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, sạch và bền vững.

Để thực hiện tốt các mục tiêu về phát triển điện khí LNG theo các quy hoạch được duyệt, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đề nghị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các đơn vị thành viên đẩy nhanh công tác xây dựng Nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và 4 để sớm đưa cả chuỗi khí điện LNG Thị Vải vào hoạt động đồng bộ và tiếp tục nghiên cứu đầu tư giai đoạn 2 nâng công suất Dự án kho LNG Thị Vải lên 3 triệu tấn/năm theo Quy hoạch đã được duyệt; đồng thời đẩy nhanh việc đầu tư Dự án trung tâm điện khí LNG Sơn Mỹ và các dự án trọng điểm khác của ngành Dầu khí.

Phó Thủ tướng cũng nhận định, lĩnh vực điện khí LNG là lĩnh vực mới của Việt Nam sẽ có khó khăn vướng mắc nhất định về cơ chế, chính sách, nên rất cần sự hỗ trợ của các Bộ, ngành, địa phương trong quá trình triển khai. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ luôn đồng hành, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư trong đầu tư, phát triển các dự án năng lượng, dầu khí, nhất là năng lượng xanh, sạch và bền vững phù hợp với chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

 

Đức An/cand.com.vn

Nguồn: https://cand.com.vn/kinh-te/phat-trien-dien-khi-xu-huong-tat-yeu-dam-bao-an-ninh-nang-luong-i714898/